Tế bào dendritic là gì? Các nghiên cứu khoa học liên quan

Tế bào dendritic là một loại tế bào miễn dịch chuyên biệt, có khả năng trình diện kháng nguyên mạnh mẽ để kích hoạt và điều hướng tế bào T đặc hiệu. Chúng đóng vai trò trung tâm trong việc kết nối miễn dịch bẩm sinh và thích ứng, giúp hệ miễn dịch phản ứng chính xác với tác nhân gây bệnh.

Định nghĩa và vai trò trung tâm của tế bào dendritic

Tế bào dendritic (DCs – Dendritic Cells) là một loại tế bào miễn dịch chuyên biệt, thuộc dòng mono‑đa nhân (mononuclear phagocyte), có khả năng nhận diện và kích hoạt mạnh tế bào T qua trình diện kháng nguyên. Chúng được xem như “người gác cổng” khởi đầu của đáp ứng miễn dịch thích ứng, đóng vai trò then chốt trong việc kích hoạt hoặc điều tiết phản ứng miễn dịch tùy ngữ cảnh.

DC tồn tại tại mô ngoại vi (da, niêm mạc, hạch lympho) để đánh giá liên tục các tín hiệu từ môi trường. Khi nhận thấy dấu hiệu nhiễm trùng hay tổn thương, DC chuyển sang trạng thái trưởng thành, di chuyển đến hạch lympho và tương tác chặt chẽ với tế bào T, khởi động đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.

Phân loại tế bào dendritic

Tế bào dendritic có thể được phân loại thành các nhóm chính dựa trên nguồn gốc tế bào, đặc điểm phân tử và chức năng chuyên biệt:

  • DC quy ước (cDCs): gồm cDC1 và cDC2, chịu trách nhiệm chính trong trình diện kháng nguyên ngoại sinh và nội sinh, kích hoạt mạnh tế bào T CD8⁺ và CD4⁺.
  • DC huyết tương (pDCs): chuyên tiết interferon loại I (IFN‑I) khi nhận diện virus, đóng vai trò quan trọng trong miễn dịch kháng virus và điều tiết miễn dịch.
  • Mo-DCs: biệt hóa từ tế bào mono trong điều kiện viêm và nhiễm trùng, mang đặc điểm hỗ trợ cDC nhưng tập trung vào khu vực tổn thương.

Mỗi loại DC có biểu hiện đặc trưng trên bề mặt (ví dụ CD11c, CD141, CD303, CD1c) và con đường trình diện kháng nguyên riêng, giúp hệ miễn dịch phản ứng linh hoạt theo từng tình huống sinh lý hoặc bệnh lý.

Cấu trúc và đặc điểm phân tử của tế bào dendritic

Tế bào dendritic có dạng hình bất định với nhiều tua gai dài – nơi tăng cường diện tích tiếp xúc với kháng nguyên và tế bào T. Nhân to, bầu dục, lưới nội chất phát triển, thể Golgi và ti thể nhiều thể hiện khả năng tổng hợp protein và hoạt hóa mạnh sau khi tiếp xúc kháng nguyên.

Bề mặt DC biểu hiện đồng thời các phân tử:

  • MHC lớp I & II: trình diện peptide kháng nguyên đến CD8⁺ và CD4⁺.
  • Costimulatory molecules: CD80, CD86, CD40 hỗ trợ kích hoạt tế bào T.
  • Receptor glycoproteins: ICAM‑1/2, CCR7 hỗ trợ kết dính và di chuyển đến hạch lympho.

Sự biểu hiện phối hợp của các phân tử này cho phép DC chi phối cả việc thu nhận kháng nguyên, di chuyển, và kích hoạt đáp ứng T‑cell hiệu quả.

Chức năng trình diện kháng nguyên chuyên nghiệp

DC là tế bào trình diện kháng nguyên chuyên biệt (professional APC). Khi nhận kháng nguyên ngoại sinh hoặc nội sinh, DC thực hiện xử lý qua các con đường khác nhau:

  • Con đường nội sinh: kháng nguyên nội bào được xử lý qua proteasome, gắn vào MHC‑I để kích hoạt tế bào T CD8⁺.
  • Con đường ngoại sinh: kháng nguyên ngoại lai được nội hóa qua endosome, xử lý và gắn vào MHC‑II để kích hoạt tế bào T CD4⁺.

DC trưởng thành tăng biểu hiện MHC và phân tử đồng kích hoạt; di chuyển đến vùng T‑cell zone của hạch lympho để bắt diện và kích hoạt tế bào T naïve. Chính nhờ khả năng trình diện phối hợp với tín hiệu giám sát mô ngoại vi, DC góp phần xác định kiểu (Th1, Th2, Th17, Treg) và cường độ đáp ứng miễn dịch thích ứng.

Cơ chế xử lý kháng nguyên và kích hoạt tế bào T

Tế bào dendritic nhận diện kháng nguyên thông qua các thụ thể nhận dạng mẫu (PRRs – Pattern Recognition Receptors), điển hình là họ Toll-like receptors (TLRs). Sự nhận diện các yếu tố gây hại như lipopolysaccharides (LPS), RNA virus hoặc DNA ngoại sinh dẫn đến hoạt hóa tín hiệu nội bào, kích thích quá trình xử lý và trình diện kháng nguyên.

Kháng nguyên được nội hóa qua quá trình endocytosis hoặc phagocytosis, xử lý trong các thể nội bào thành các peptide nhỏ. Sau đó, các peptide này gắn vào phân tử MHC (Major Histocompatibility Complex) và được vận chuyển đến màng tế bào. Cơ chế này được chia làm hai con đường:

  • Cross-presentation: đặc biệt ở DC, cho phép kháng nguyên ngoại sinh được trình diện qua MHC lớp I để kích hoạt T CD8+.
  • MHC-II pathway: gắn peptide ngoại sinh vào MHC-II để kích hoạt T CD4+.

DC cũng biểu hiện các phân tử đồng kích hoạt như CD80/86, CD40 – cần thiết để tạo tín hiệu thứ hai cho hoạt hóa T-cell. Ngoài ra, DC tiết các cytokine định hướng biệt hóa tế bào T thành Th1, Th2, Th17 hoặc Treg, tùy vào tín hiệu nhận diện và môi trường vi mô.

DC trong điều hòa miễn dịch và dung nạp

Bên cạnh khả năng khởi phát miễn dịch, DC còn đóng vai trò trung gian dung nạp miễn dịch – đặc biệt là DC ở trạng thái chưa trưởng thành hoặc trong điều kiện chống viêm. DC dung nạp không biểu hiện phân tử đồng kích hoạt đầy đủ và có thể dẫn đến bất hoạt hoặc cảm ứng Treg (regulatory T-cells).

Các mô như ruột, da, và niêm mạc duy trì môi trường dung nạp nhờ các yếu tố như TGF-β, retinoic acid, và IL-10. DC trong các mô này giúp duy trì cân bằng miễn dịch và ngăn chặn tự miễn hoặc phản ứng quá mức với vi sinh vật có lợi.

Một số DC chuyên biệt (tolerogenic DCs) có thể được ứng dụng để điều trị bệnh tự miễn hoặc bệnh lý viêm mạn tính bằng cách điều hướng hệ miễn dịch về trạng thái không phản ứng (anergy) hoặc cảm ứng Treg đặc hiệu kháng nguyên.

Vai trò trong vắc xin và liệu pháp ung thư

Do khả năng trình diện kháng nguyên mạnh và định hướng đáp ứng T-cell, DC được ứng dụng trong nhiều chiến lược vắc xin hiện đại, đặc biệt là vắc xin peptide, RNA và tế bào. Vắc xin RNA như mRNA-1273 (Moderna) và BNT162b2 (Pfizer-BioNTech) được DC thu nhận và trình diện kháng nguyên virus SARS-CoV-2 hiệu quả.

Trong liệu pháp miễn dịch ung thư, DC có thể được nạp kháng nguyên khối u ex vivo, sau đó tiêm trở lại bệnh nhân để tạo đáp ứng T-cell đặc hiệu kháng khối u. Một ví dụ điển hình là vắc xin dendritic Provenge (sipuleucel-T), được FDA phê duyệt để điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

DC cũng đang được nghiên cứu kết hợp với checkpoint inhibitors (như anti-PD-1, anti-CTLA-4) để tăng hiệu quả diệt khối u bằng cách phục hồi chức năng tế bào T kiệt sức (exhausted T cells).

Ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị miễn dịch

Tế bào dendritic và dấu ấn bề mặt của chúng (CD83, CD86, CCR7...) được sử dụng như chỉ thị để đánh giá tình trạng miễn dịch của bệnh nhân, đặc biệt trong ung thư, HIV, hoặc ghép tạng. Sự thiếu hụt hoặc rối loạn chức năng của DC liên quan đến giảm khả năng tạo trí nhớ miễn dịch, nhiễm trùng kéo dài hoặc tự miễn.

Các thử nghiệm lâm sàng đang phát triển các thế hệ DC dung nạp nhân tạo để điều trị các bệnh như lupus ban đỏ hệ thống (SLE), đa xơ cứng (MS) và viêm khớp dạng thấp (RA). Việc kiểm soát tín hiệu đồng kích hoạt và môi trường biệt hóa sẽ là chìa khóa để cá thể hóa liệu pháp DC.

Hướng nghiên cứu tương lai

Nghiên cứu hiện tại tập trung vào các chủ đề: lập bản đồ biểu hiện gene đơn bào (scRNA-seq) để hiểu sự đa dạng DC, tạo dòng DC từ tế bào gốc cảm ứng (iPSCs), kết hợp DC với vật liệu nano để tạo hệ dẫn truyền vắc xin nhắm đích cao.

Một số dự án cũng khai thác trí tuệ nhân tạo và học sâu (deep learning) để tối ưu hóa thiết kế peptide kháng nguyên và dự đoán kết quả đáp ứng miễn dịch do DC trung gian.

Tài liệu tham khảo

  1. Banchereau, J., & Steinman, R. M. (1998). Dendritic cells and the control of immunity. Nature, 392(6673), 245–252.
  2. Guermonprez, P., Valladeau, J., Zitvogel, L., Théry, C., & Amigorena, S. (2002). Antigen presentation and T cell stimulation by dendritic cells. Annu Rev Immunol, 20, 621–667.
  3. Palucka, K., & Banchereau, J. (2013). Dendritic-cell-based therapeutic cancer vaccines. Immunity, 39(1), 38–48.
  4. NIAID – Dendritic Cells. niaid.nih.gov
  5. Cell Signaling Technology – Dendritic Cell Markers. cellsignal.com

Các bài báo, nghiên cứu, công bố khoa học về chủ đề tế bào dendritic:

Các Tế Bào T Plasmacytoid Bí Ẩn Phát Triển Thành Tế Bào Dendritic Với Interleukin (IL)-3 và CD40-Ligand Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 185 Số 6 - Trang 1101-1112 - 1997
Một phân nhóm của các tế bào máu CD4+CD11c−CD3− gần đây đã được chỉ ra là phát triển thành tế bào dendritic khi nuôi cấy trong môi trường điều kiện từ tế bào đơn nhân. Tại đây, chúng tôi chứng minh rằng các tế bào CD4+ CD11c−CD3−, được tách ra từ amidan, tương ứng với các tế bào T plasmacytoid, một loại tế bào ít được biết đến mà đã lâu được các nhà bệnh học quan sát thấy trong các mô lymp...... hiện toàn bộ
Bạch cầu trung tính kích hoạt tế bào tua tua dạng huyết tương bằng cách phóng thích các phức hợp DNA tự thân – peptide trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 3 Số 73 - 2011
Trong bệnh lupus ban đỏ hệ thống, bạch cầu trung tính phóng thích các phức hợp peptide/DNA tự thân kích hoạt tế bào tua tua dạng huyết tương và hình thành kháng thể tự phát.
Vai trò của estradiol và progesterone trong điều chỉnh mật độ gai thần kinh trên đồi hải mã trong chu kỳ động dục ở chuột Dịch bởi AI
Journal of Comparative Neurology - Tập 336 Số 2 - Trang 293-306 - 1993
Tóm tắtChúng tôi đã chứng minh trước đó rằng mật độ gai thần kinh trên các tế bào hình tháp CA1 của đồi hải mã phụ thuộc vào estradiol và progesterone tuần hoàn, thay đổi tự nhiên trong chu kỳ động dục 5 ngày ở chuột trưởng thành. Cho đến nay, chưa có sự mô tả chi tiết nào về vai trò của các hormon này trong việc điều chỉnh mật độ gai thần kinh. Để xác định thời gi...... hiện toàn bộ
#Estradiol #Progesterone #Mật độ gai thần kinh #Tế bào hình tháp CA1 #Đồi hải mã #Chuột #Chu kỳ động dục.
Các tế bào tiền nguyên bào plasmacytoid khởi phát bệnh vẩy nến thông qua việc sản xuất interferon-α Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 202 Số 1 - Trang 135-143 - 2005
Bệnh vẩy nến là một trong những bệnh tự miễn do tế bào T gây ra phổ biến nhất ở người. Mặc dù có giả thuyết về vai trò của hệ miễn dịch bẩm sinh trong việc khởi động chuỗi phản ứng tự miễn dịch tế bào T, nhưng bản chất của nó vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi cho thấy rằng các tế bào tiền nguyên bào plasmacytoid (PDCs), là các tế bào sản xuất interferon (IFN)-α tự nhiên, xâm nhập vào da của bệnh...... hiện toàn bộ
#Bệnh vẩy nến #tế bào miễn dịch bẩm sinh #interferon-α #tế bào tiền nguyên bào plasmacytoid #autoimmunity
Tạo ra các tế bào T điều hòa CD8 ở người bởi các tế bào đuôi gai plasmacytoid được kích hoạt bằng CD40 ligand Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 195 Số 6 - Trang 695-704 - 2002
Mặc dù sự ức chế miễn dịch do tế bào T CD8 trung gian đã là một hiện tượng đã được biết đến trong suốt ba thập kỷ qua, bản chất của các tế bào T ức chế CD8 sơ cấp và cơ chế tạo ra chúng vẫn còn bí ẩn. Chúng tôi đã chứng minh rằng các tế bào T CD8 chưa trưởng thành được kích thích bằng các tế bào đuôi gai plasmacytoid được kích hoạt bởi CD40 ligand (DC)2 đã phân hóa thành các tế bào T CD8 t...... hiện toàn bộ
Sự định vị của các kiểu hình tế bào trình diện (Dendritic Cell) trong mảng Peyer và vai trò của các hóa chất trong việc tuyển chọn chúng Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 191 Số 8 - Trang 1381-1394 - 2000
Chúng tôi mô tả sự định vị giải phẫu của ba kiểu hình tế bào trình diện (DC) khác nhau trong mảng Peyer (PP) của chuột và khám phá vai trò của các hóa chất trong việc tuyển chọn chúng. Bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang hai màu, các DC myeloid CD11b+ được xác định có mặt trong vùng nóc dưới biểu mô (SED), trong khi các DC lymphoid CD8α+ có mặt trong vùng giữa các nang giàu tế bào T (IF...... hiện toàn bộ
#Peyer #tế bào trình diện #chemokines #MIP-3α #MIP-3β #CCR6 #CCR7
Phân nhóm tế bào dendritic CD8+ Dịch bởi AI
Immunological Reviews - Tập 234 Số 1 - Trang 18-31 - 2010
Tóm tắt:  Các mô lympho của chuột chứa một phân nhóm tế bào dendritic (DCs) biểu hiện CD8α cùng với một mẫu các phân tử bề mặt khác biệt chúng với các DCs khác. Những phân tử này bao gồm các thụ thể nhận biết mẫu kiểu Toll‐like receptor và lectin loại C đặc biệt. Một phân nhóm DC tương tự, mặc dù không có biểu hiện CD8, tồn tại ở con người. Các tế bào DC CD8... hiện toàn bộ
Da chứa các tế bào tua (dendritic cells) langerin+ phát triển và hoạt động độc lập với các tế bào Langerhans ở biểu bì Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 204 Số 13 - Trang 3119-3131 - 2007
Các tế bào Langerhans (LCs) là một nhánh của tế bào tua (DCs) biểu hiện lectin langerin và tồn tại ở trạng thái chưa trưởng thành trong lớp biểu bì. Một nghịch lý là, ở những con chuột cho phép loại bỏ LCs qua độc tố bạch hầu (DT), các LCs ở biểu bì lại xuất hiện trở lại với tốc độ chậm hơn so với các hậu duệ khả dĩ của chúng có mặt trong các hạch bạch huyết (LNs). Sử dụng các chimeras tủy...... hiện toàn bộ
Khám Phá Chức Năng Của Các Tế Bào Dendritic Plasmacytoid Trong Các Cuộc Nhiễm Virus, Tự Miễn Dịch Và Miễn Dịch Tolerance Dịch bởi AI
Immunological Reviews - Tập 234 Số 1 - Trang 142-162 - 2010
Tóm tắt:  Các tế bào dendritic plasmacytoid (pDCs) là các tế bào phát sinh từ tủy xương, tiết ra một lượng lớn interferon loại I (IFN) nhằm phản ứng với virus. IFN loại I là các cytokine có khả năng tác động đa dạng với hoạt tính chống virus, đồng thời cũng tăng cường các phản ứng miễn dịch bẩm sinh và thích ứng. Virus kích thích sự hoạt hóa của pDCs và phản ứng IFN ...... hiện toàn bộ
Sự Suy Giảm Sản Xuất IFN-α Bởi Các Tế Bào Dendritic Tủy Nhân Tạo Thúc Đẩy Sự Mở Rộng Các Tế Bào T điều hòa Có Thể Góp Phần Vào Sự Tiến Triển Của Ung Thư Vú Dịch bởi AI
American Association for Cancer Research (AACR) - Tập 72 Số 20 - Trang 5188-5197 - 2012
Tóm tắtViệc thâm nhập và rối loạn của các tế bào miễn dịch đã được ghi nhận ở nhiều loại ung thư. Chúng tôi trước đây đã báo cáo rằng các tế bào dendritic tủy nhân tạo (pDC) trong các khối u vú nguyên phát có mối tương quan với tiên lượng không thuận lợi cho bệnh nhân. Vai trò của pDC trong ung thư vẫn còn chưa rõ ràng nhưng chúng đã cho thấy khả năng trung gian mi...... hiện toàn bộ
Tổng số: 46   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5